Bác sĩ nói rằng 80% nguyên nhân của rối loạn tiền đình là do tình trạng thiếu máu não gây ra, và bà nội cũng vậy. Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì không chỉ dừng lại ở rối loạn tiền đình, đau đầu, mất ngủ đâu… Thiếu máu não nặng lâu ngày có thể dẫn tới tổn thương não, mất trí nhớ, liệt nửa người, thậm chí đột quỵ. Chú lo quá Bảo à!". 11 dấu hiệu cơ thể bị rối loạn nội tiết. SKĐS - Hormon đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của cơ thể. Là một phần của hệ thống nội tiết, chúng là những "sứ giả" hóa học trong máu, kiểm soát nhiều hoạt động quan trọng của cơ thể từ đầu đến chân Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (Mỹ) chỉ ra gần một nửa số thanh thiếu niên ở đất nước này bị rối loạn ăn uống và có tới 2,7% dân số mắc bệnh này suốt đời. Điều này cho thấy tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi và việc ăn uống rối loạn ở trẻ nhỏ có thể dẫn đến chứng rối loạn ăn uống trầm trọng hơn. Rối loạn giấc ngủ hầu như ai cũng có thể mắc phải ít nhất một lần trong đời. Căn bệnh này có thể gặp ở mọi độ tuổi, giới tính. Nhiều nghiên cứu cho thấy các vấn đề về giấc ngủ có thể làm chứng đau cơ xơ hóa phát triển phức tạp và khó kiểm soát hơn. 4. Trình bày được rối loạn chuyển hóa glucid, lipid và protid trong. bệnh tiểu đường. 5. Trình bày được cơ chế biểu hiện các triệu chứng trong bệnh tiểu. đường. 6. Trình bày được cơ chế bệnh sinh của các biến chứng trong bệnh tiểu. đường. Nếu bạn có nguy cơ di truyền, việc ăn uống có thể làm giảm hoặc tăng tỷ lệ mắc bệnh. 7. Tiểu tiện thường xuyên. Nếu bạn đột nhiên đi tiểu thường xuyên, tình trạng này có thể liên quan tới lượng đường huyết cao do tuyến tụy bị rối loạn vì bệnh tiểu đường. QCso3. Rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là một dạng của rối loạn phân ly mà có những cảm giác kéo dài dai dẳng hoặc tái diễn việc cảm giác bị tách rời bị phân ly khỏi cơ thể hoặc các quá trình tâm thần, thường là cảm giác như một người quan sát bên ngoài về cuộc sống của mình giải thể nhân cách, hoặc bị tách rời khỏi những cái xung quanh mình tri giác sai thực tại. Rối loạn này thường được khởi phát bởi căng thẳng nặng. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng sau khi các nguyên nhân khả thi khác được loại trừ. Việc điều trị bao gồm trị liệu tâm lý cộng với liệu pháp điều trị bằng thuốc cho bất kỳ chứng trầm cảm và/hoặc lo âu kèm 50% dân số nói chung đã từng có ít nhất một lần trải nghiệm thoáng qua về giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại trong cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 2% số người trong số đó đáp ứng các tiêu chí có rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại có thể xảy ra tương đồng giữa nam và nữ. Độ tuổi khởi phát trung bình là 16 năm. Rối loạn này có thể bắt đầu trong giai đoạn sớm hoặc giữa thời thơ ấu; chỉ có 5% trường hợp bắt đầu sau tuổi 25, và rối loạn hiếm khi bắt đầu sau tuổi 40. Những người có rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường trải qua các căng thẳng nghiêm trọng, ví dụ như sau Bị lạm dụng tình cảm hoặc bị bỏ rơi trong thời thơ ấu một nguyên nhân phổ biến nhấtBị lạm dụng thể chấtChứng kiến bạo lực trong gia đìnhCó bố mẹ bị bệnh lý gây suy giảm chức năng hoặc bệnh lý tâm thần nặng nềCó một người trong gia đình hoặc người bạn thân chết bất ngờ Các giai đoạn có thể được khởi phát bởi các căng thẳng giữa các cá nhân, tài chính hoặc nghề nghiệp; trầm cảm Các rối loạn trầm cảm Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm ; lo âu Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm ; hoặc sử dụng các loại chất bất hợp pháp Tổng quan về việc sử dụng chất kích thích Rối loạn liên quan đến sử dụng chất kích thích liên quan đến các loại chất hoạt hóa trực tiếp vào hệ thống tưởng thưởng của bộ não. Việc kích hoạt hệ thống phần thưởng thường gây ra cảm giác... đọc thêm , đặc biệt là cần sa Cần sa Cannabis Cần sa là chất gây hưng cảm có thể gây an thần hoặc bồn chồn ở một số người. Lâm sàng là phụ thuộc tâm lý xảy ra khi sử dụng lâu dài, nhưng rất ít sự phụ thuộc về thể chất. Hội chứng cai gây... đọc thêm , ketamin Ketamine và Phencyclidine PCP Ketamine và phencyclidine là các thuốc gây mê có thể gây ngộ độc, đôi khi có sự nhầm lẫn hoặc trạng thái cuộn cảm. Quá liều có thể gây hôn mê, và hiếm khi tử vong. Ketamine và phencyclidine... đọc thêm , hoặc các chất gây ảo giác Thuốc gây ảo giác Thuốc gây ảo giác là một nhóm thuốc đa dạng có thể gây ra các phản ứng không lường trước được, phản ứng đặc ứng. Ngộ độc thường gây ảo giác, kèm theo thay đổi nhận thức, kém phán đoán, sự liên... đọc thêm . Triệu chứng và Dấu hiệu Các triệu chứng của rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường mang tính chất từng giai đoạn và dao động về cường độ. Các giai đoạn có thể kéo dài chỉ vài giờ hoặc vài ngày hoặc vài tuần, vài tháng, hoặc đôi khi vài năm. Nhưng ở một số bệnh nhân, các triệu chứng liên tục xuất hiện ở cường độ không đổi trong nhiều năm hoặc nhiều thập chứng giải thể nhân cách bao gồm Cảm giác tách ra khỏi cơ thể, tâm trí, cảm xúc và/hoặc cảm giác của một ngườiBệnh nhân cảm thấy như một người quan sát bên ngoài cuộc sống của họ. Nhiều bệnh nhân cũng nói rằng họ cảm thấy không thực hoặc giống như một con robot hoặc tự động không kiểm soát những gì họ làm hoặc nói. Họ có thể cảm thấy tình cảm và thể chất tê liệt hoặc cảm thấy tách ra, với ít cảm xúc. Một số bệnh nhân không thể nhận ra hoặc mô tả cảm xúc của họ chứng mù cảm xúc. Họ thường cảm thấy bị ngắt kết nối khỏi ký ức và không thể nhớ rõ triệu chứng tri giác sai thực tại bao gồm Cảm giác bị tách rời khỏi môi trường xung quanh ví dụ, người, đồ vật, mọi thứ, có vẻ như không thực tếBệnh nhân có thể cảm thấy như thể đang ở trong một giấc mơ hoặc sương mù hoặc như thể một bức tường bằng kính hoặc tấm màn chia tách họ ra khỏi môi trường xung quanh. Thế giới dường như vô hồn, không màu hoặc giả tạo. Sự méo mó chủ quan về thế giới là phổ biến. Ví dụ, vật thể có thể xuất hiện mờ hoặc không rõ ràng như thường lệ; chúng dường như bằng phẳng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn bản thân chúng. Âm thanh có vẻ như to hơn hoặc nhẹ nhàng hơn; thời gian dường như trôi quá chậm hoặc quá chứng hầu như luôn gây khó chịu, và khi nặng nề, không thể dung nạp được. Lo âu và trầm cảm thường phổ biến. Một số bệnh nhân lo ngại rằng họ có tổn thương não không hồi phục hoặc họ đang dần trở nên điên loạn. Những người khác thì ám ảnh về việc liệu họ có thực sự tồn tại hoặc liên tục kiểm tra để xác định liệu tri giác của họ là có thật hay không. Tuy nhiên, bệnh nhân luôn giữ được nhận thức rằng những trải nghiệm không thực tế của họ là không có thực mà chỉ là cách mà họ cảm thấy nghĩa là họ vẫn còn nguyên vẹn khả năng kiểm tra thực tế. Sự nhận biết này giúp phân biệt rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại với các rối loạn loạn thần, trong đó sự thấu hiểu bên trong là luôn thiếu. Tiêu chuẩn lâm sàngChẩn đoán rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là lâm sàng, dựa trên sự hiện diện của các tiêu chuẩn sau trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ năm DSM-5 Bệnh nhân có các giai đoạn kéo dài hoặc tái phát giải thể nhân cách, tri giác thai thực tại, hoặc cả nhân biết rằng những trải nghiệm phân ly của họ là không có thực nghĩa là họ vẫn có một cảm giác về thực tế nguyên vẹn.Các triệu chứng gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề ra, các triệu chứng không thể giải thích hợp lý hơn bởi rối loạn tâm thần hoặc bệnh lý khác ví dụ, co giật, đang lạm dụng chất gây nghiện, rối loạn hoảng sợ, rối loạn trầm cảm chủ yếu, rối loạn phân ly khác.MRI và điện não đồ được thực hiện để loại trừ nguyên nhân cấu trúc, đặc biệt nếu triệu chứng hoặc tiến triển là không điển hình ví dụ, nếu các triệu chứng bắt đầu sau 40 tuổi. Xét nghiệm độc tính trong nước tiểu cũng có thể được chỉ kiểm tra tâm lý, các buổi phỏng vấn có cấu trúc và các bộ câu hỏi đặc biệt rất có hữu ích. Các bệnh nhân với rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường cải thiện mà không cần can thiệp. Việc hồi phục hoàn toàn thì khả dĩ đối với nhiều bệnh nhân, đặc biệt là nếu các triệu chứng là kết quả của những căng thẳng điều trị được hoặc thoáng qua hoặc không kéo dài. Ở những người khác, giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại trở thành mạn tính và kháng chí các triệu chứng giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại kéo dài hoặc tái phát chỉ gây suy giảm ở mức độ tối thiểu nếu bệnh nhân có thể tách bản thân họ khỏi những cảm giác chủ quan bằng việc giữ cho tâm trí họ luôn bận rộn và tập trung vào các suy nghĩ và hoạt động khác. Một số bệnh nhân trở nên tàn tật do cảm giác xa lánh mạn tính, do có lo âu hoặc trầm cảm kèm theo hoặc cả hai. Tâm lý trị liệuViệc điều trị chứng rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại phải tìm ra tất cả những căng thẳng liên quan tới việc khởi phát rối loạn bệnh cũng như các căng thẳng sớm trong đời ví dụ, lạm dụng trẻ hoặc bỏ bê, vốn là những căng thẳng dẫn đến làm bệnh nhân bị rối loạn giải thể nhân cách và/hoặc tri giác sai thực tại khởi phát liệu pháp tâm lý khác nhau ví dụ, liệu pháp tâm lý động, liệu pháp nhận thức-hành vi tỏ ra thành công đối với nhiều bệnh nhân Kỹ thuật nhận thức có thể giúp chặn các suy nghĩ ám ảnh về trạng thái không thuật hành vi có thể giúp bệnh nhân tham gia vào các nhiệm vụ làm họ tách khỏi giải thể nhân cách và tri giác sai thực thuật tiếp đất sử dụng 5 giác quan ví dụ, bằng cách chơi nhạc lớn hoặc đặt một miếng băng trong tay để giúp bệnh nhân cảm thấy kết nối hơn với bản thân và thế giới và cảm thấy thực hơn trong những thời khắc pháp tâm động giúp bệnh nhân đối phó với những cảm xúc tiêu cực, những mâu thuẫn bên dưới, hoặc những trải nghiệm mà gây ra tình trạng không thể dung nạp với bản thân và từ đó bị phân dõi thời điểm và ghi nhãn tác động và phân ly trong các buổi trị liệu có hiệu quả tốt cho một số bệnh nhân. Nhiều loại thuốc đã được sử dụng, nhưng không thuốc nào có thể chứng minh hiệu quả rõ ràng. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có thể được trợ giúp với thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin SSRI Các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin SSRI Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc SSRI Thuốc điều hòa serotonin thuốc chẹn 5-HT2 Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine... đọc thêm , lamotrigin, thuốc đối kháng opioid, thuốc giải lo âu và thuốc kích thích. Tuy nhiên, các loại thuốc này có thể hoạt động chủ yếu bằng cách nhắm vào các rối loạn tâm thần khác ví dụ, lo lắng Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm , trầm cảm Tổng quan về Rối loạn khí sắc Các rối loạn khí sắc là các rối loạn cảm xúc bao gồm một quãng thời gian kéo dài buồn chán quá mức, vui quá mức, hoặc cả hai. Rối loạn khí sắc có thể xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên xem... đọc thêm thường kết hợp hoặc khởi phát bởi rối loạn giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Rối loạn giấc ngủ khiến con người dễ bị cúm và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp khác, trong đó có Covid-19, vốn có thể khiến người mắc phải nhập viện. Đây là kết quả nghiên cứu do Đại học Helsinki Phần Lan và Trường Y Harvard, Đại học Yale, Đại học Stanford Mỹ phối hợp thực hiện và được đăng tải trên Tạp chí y khoa eBioMedicine ngày 8/ Đại học Helsinki, nghiên cứu đã phân tích dữ liệu của hơn người và sử dụng phương pháp dịch tễ học di truyền để kiểm tra mối liên hệ có thể có giữa chứng mất ngủ và các bệnh nhiễm trùng khác. Rối loạn giấc ngủ khiến con người dễ bị cúm và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Nguồn InternetTrong số những người Phần Lan tham gia nghiên cứu mà được chẩn đoán mắc chứng mất ngủ, nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp cao hơn gần 6 lần và nguy cơ bị cúm cao hơn 4 lần so với những người tham gia cứu cũng cho thấy mối liên hệ giữa chứng mất ngủ với mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng COVID-19, và trong những trường hợp xấu nhất cần nhập gia Hanna Ollila thuộc Viện Y học phân tử Phần Lan tại Đại học Helsinki cho biết kết quả nghiên cứu trên phù hợp với tài liệu trước đó và cho thấy ngủ đủ giấc rất quan trọng để duy trì khả năng miễn dịch hiệu Viện nghiên cứu giấc ngủ của Mỹ, khoảng 30% người trưởng thành gặp các vấn đề về giấc ngủ. Do đó, những phát hiện mới dự kiến sẽ tác động lớn đến việc cải thiện các hoạt động y tế công. Rối loạn mặc cảm ngoại hình được đặc trưng bởi mối bận tâm với ≥ 1 khiếm khuyết nhận thức về ngoại hình không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khác. Sự bận tâm với ngoại hình phải gây ra tình trạng đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc suy giảm về các khía cạnh xã hội, nghề nghiệp, học tập hoặc các khía cạnh khác của chức năng. Và tại một số thời điểm trong quá trình rối loạn, bệnh nhân phải thực hiện lặp đi lặp lại ≥ 1 hành vi lặp đi lặp lại ví dụ, soi gương, so sánh ngoại hình của mình với người khác để đáp lại mối bận tâm về ngoại hình. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bằng thuốc cụ thể là thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc [SSRI] hoặc clomipramine, liệu pháp tâm lý cụ thể là liệu pháp nhận thức-hành vi hoặc cả loạn dị dạng cơ thể thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên và có thể phần nào phổ biến hơn ở phụ nữ. Tại bất kỳ thời điểm nào, tỉ lệ mắc rối loạn này là 1,7% - 2,9%. Các triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn mặc cảm ngoại hình Triệu chứng có thể phát triển dần dần hoặc đột ngột. Mặc dù cường độ có thể thay đổi, rối loạn thường được xem là mạn tính trừ khi bệnh nhân được điều trị thích hợp. Các mối quan tâm thường liên quan đến khuôn mặt hoặc vùng đầu nhưng có thể bao gồm bất kỳ bộ phận nào của cơ thể hoặc bất kỳ phần nào của một bộ phận và có thể thay đổi từ phần này sang phần khác theo thời gian. Ví dụ, bệnh nhân có thể lo lắng về việc ít tóc, mụn trứng cá, nếp nhăn, vết sẹo, điểm mạch máu, màu da, hoặc quá nhiều tóc trên khuôn mặt hoặc cơ thể. Hoặc họ có thể tập trung vào hình dạng hoặc kích thước của mũi, mắt, tai, miệng, ngực, mông, chân, hoặc một bộ phận cơ thể khác. Đàn ông và hiếm khi phụ nữ có thể có một dạng rối loạn gọi là rối loạn dị dạng cơ, liên quan đến sự bận tâm với ý tưởng rằng cơ thể của họ không đủ cơ bắp. Bệnh nhân có thể mô tả các bộ phận cơ thể bản thân không thích là xấu xí, không hấp dẫn, biến dạng, ghê tởm, hoặc kì nhân thường dành nhiều giờ trong ngày để lo lắng về những khiếm khuyết nhận thức được của họ và thường nhầm tưởng rằng mọi người đặc biệt lưu ý hoặc chế nhạo họ vì những khiếm khuyết nhận thức được này. Họ nhìn bản thân mình thường xuyên trong gương, những người khác lại tránh soi gương, và những người khác vẫn luân phiên nhau giữa 2 hành vì những người bị chứng rối loạn dị dạng cơ thể có cảm giác tự ý thức về sự xuất hiện của họ, họ có thể tránh ra ngoài nơi công cộng. Đối với hầu hết các khía cạnh về xã hội, nghề nghiệp, học tập và các khía cạnh khác của chức năng thường bị suy giảm – thường là do mối lo lắng của họ về diện mạo bên ngoài. Một số chỉ rời khỏi nhà vào ban đêm; những người khác, không ra ngoài cả ngày. Tình trạng cô lập với xã hội, trầm cảm, nhập viện và hành vi tự sát là phổ biến. Trong một số trường hợp rất nặng, rối loạn mặc cảm ngoại hình gây mất khả năng vận độ thấu hiểu khác nhau, nhưng thường là ít hoặc không có sự thấu hiểu. Nghĩa là, hầu hết bệnh nhân thực sự tin rằng phần cơ thể không ưa thích có thể ít thấu hiểu hoặc chắc chắn không có sự thấu hiểu có vẻ bất thường, xấu xí, hoặc không hấp dẫn. Tài liệu tham khảo về các dấu hiệu và triệu chứng 1. Angelakis I, Gooding PA, Panagioti M Suicidality in body dysmorphic disorder BDD A systematic review with meta-analysis. Psychol Rev 4955-66, 2016. doi Tiêu chuẩn lâm sàngVì nhiều bệnh nhân quá xấu hổ và hổ thẹn khi bộc lộ các triệu chứng của họ, rối loạn cơ thể này có thể không được chẩn đoán trong nhiều năm. Nó được phân biệt với những mối quan tâm bình thường về diện mạo bởi vì sự bận tâm này làm tốn nhiều thời gian và gây ra những căng thẳng đáng kể, suy giảm chức năng, hoặc cả chuẩn chẩn đoán rối loạn mặc cảm ngoại hình bao gồm Mối bận tâm về một hoặc nhiều khiếm khuyết nhận thấy về ngoại hình không thể quan sát được hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người khácThực hiện các hành vi lặp đi lặp lại ví dụ, soi gương, chải chuốt quá mức để đối phó với những lo ngại về ngoại hình tại một số thời điểm trong thời gian rối loạnSự bận tâm gây ra những căng thẳng đáng kể hoặc làm suy giảm các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực chức năng khác Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc SSRI và clomipramine cộng với, trong một số trường hợp, là một loại thuốc tăng cườngLiệu pháp nhận thức-hành viLiệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh theo các triệu chứng cụ thể của rối loạn dị dạng cơ thể và hiện nay là một sự lựa chọn trong điều trị tâm lý. Các phương pháp tiếp cận nhận thức ví dụ, tái cấu trúc nhận thức và phòng ngừa phơi nhiễm và nghi lễ là những yếu tố cần thiết của liệu pháp. Các bác sĩ lâm sàng khuyến khích bệnh nhân dần dần đối mặt với các tình huống mà họ sợ hãi hoặc né tránh trong khi không thực hiện các nghi lễ của pháp nhận thức-hành vi cũng bao gồm các yếu tố khác như đào tạo lại nhận thức và đào tạo đảo ngược thói quen cấu véo da hoặc kéo hoặc nhổ tóc nếu có. Huấn luyện đảo ngược thói quen bao gồm những điều sau đây Đào tạo nâng cao nhận thức ví dụ, tự giám sát, xác định các yếu tố kích hoạt hành viKiểm soát kích thích sửa đổi các tình huống – ví dụ, tránh các yếu tố khởi phát – để giảm khả năng bắt đầu hành viĐào tạo phản ứng cạnh tranh dạy cho bệnh nhân thay thế các hành vi khác, chẳng hạn như nắm chặt tay, đan hoặc ngồi trên tay, cho hành vi quá mứcVì hầu hết bệnh nhân có ít sự thấu hiểu hoặc không có sự thấu hiểu, cần phải phỏng vấn tạo động lực để tăng sự sẵn sàng tham gia và duy trì điều chuyên gia cho rằng kết hợp liệu pháp nhận thức-hành vi với điều trị bằng thuốc là tốt nhất cho những trường hợp bệnh nặng. Bệnh nhân bận tâm với ≥ 1 khiếm khuyết nhận thức được về ngoại hình của họ không rõ ràng hoặc chỉ xuất hiện nhẹ đối với người một số thời điểm trong suốt quá trình rối loạn, bệnh nhân đáp lại những lo lắng về ngoại hình của họ bằng cách thực hiện các hành vi lặp đi lặp lại ví dụ, soi gương, chải chuốt quá mức và/hoặc thực hiện các biện pháp để ngụy trang hoặc loại bỏ các khiếm khuyết đã nhận nhân thường có ít sự thấu hiểu hoặc không có sự thấu hiểu và thực sự tin rằng vùng cơ thể mình không thích là không bình thường hoặc không hấp trị bằng liệu pháp nhận thức-hành vi được điều chỉnh đặc biệt cho rối loạn mặc cảm ngoại hình và/hoặc điều trị bằng thuốc với SSRI hoặc clomipramine, thường ở liều tương đối cao. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

rối loạn cơ thể