Mô tả chi tiết. MÁY PHÂN TÍCH NƯỚC TIỂU HÀN QUỐC 300 TEST/GIỜ. Đặc tính kỹ thuật: Chuẩn máy: tự động. Phương pháp đo: Quang phổ kế phản xạ. Bước sóng: 470 nm , 530nm , 626nm. Công suất: 300 tests/giờ ( tối đa 1.000 tests/giờ) Lưu trữ dữ liệu: 2000 mẫu bệnh nhân. Que tương Máy tạo độ ẩm-Máy hút ẩm ; Cân phân tích cơ thể chuyên nghiệp ; Cân sức khỏe - Người lớn, trẻ em ; Cân nhà bếp - Cân chia thức ăn ; Thiết bị y tế THU MAI chuyên cung cấp các sản phẩm thiết bị y tế chính hãng, đạt tiêu chuẩn GPP, tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn an Bài viết này xin bổ sung, nhấn mạnh theo lối cảm nhận mới: ba bài thơ thu của là kết tụ của những ngột ngạt, tàn tạ, thụ động, bế tắc cả cảnh lẫn tình. Với ba bài thơ thu, Nguyễn Khuyến là nhà thơ của những tang thương, tái tê đến giày vò, khắc khoải nỗi đau đời, đau thời. 1. Cảnh ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, thụ động Bộ thu cảm biến không dây; HMI không dây; Phân tích Chất khí Cảm biến Sigfox đo Độ ẩm và Nhiệt độ môi trường có chứng nhận chống cháy nỗ Ex d. Cảm biến không dây siêu âm đo mức thùng rác. Cảm biến Sigfox đo dòng AC. Một trong những bài thơ đặc sắc viết về mùa thu trong chùm ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến phải kể đến bài Thu ẩm (Uống rượu mùa thu), các em hãy phân tích bài Thu ẩm để hiểu rõ hơn về nội dung ý tưởng độc đáo. là tiếng lòng của nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm đã được gửi gắm qua phong cách nghệ thuật thơ đặc sắc, tiêu biểu. Bài thơ miêu tả chân thực nét đẹp mùa thu tĩnh lặng nơi làng quê xưa. Phân tích Thu điếu ta thấy được vẻ đẹp buồn, cô đơn của một nhà nho nặng tình với quê hương. Cũng như Thu ẩm, Thu vịnh, Thu điếu được viết vào khoảng thời gian sau khi Nguyễn Khuyến từ quan về quê nhà. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. X10IwVp. Phân tích bài thơ Thu Ẩm - out of 5 based on 1 vote Details Published Tuesday, 26 May 2020 0800 Written by Admin4 Hits 4536 Trong bài Thu ẩm này, ở đây dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ được đưa vào trong bài. Thu ẩm là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu ẩm là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến Thu điếu Mùa thu câu cá, Thu vịnh Mùa thu làm thơ, Thu ẩm Mùa thu uống rượu. Chùm thơ này là dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc. Trong bài Thu ẩm này, ở đây dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ được đưa vào trong bài. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị . Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè. “Nhà cỏ”, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng thấp le te thì đã cho thấy là lụp xụp và chẳng còn lành lặn. Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe. Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say đến “say nhè” “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha. Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu ngõ tối. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra lóng lánh trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm. Xem thêm Phân tích bài thơ Thu Vịnh Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say. Bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ rượu, chén, say nhè, cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm. Với bài “Thu ẩm”, nhà thơ thể hiện sự buồn bã, day dứt trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn. Tất cả cũng đều vì tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Ngày đăng 22/07/2016, 2132 Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không ai vô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ…Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” Thu vịnh, với cái nước “trong veo” của ao cá Thu điếu, và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” Thu ẩm. Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn KhuyếnAo thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoCâu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giới hạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thân mật biết bao!Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnhSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèoCàng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng vcái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong không gian, rơi xuống VnDoc - Tải tài liệu, văn pháp luật, biểu mẫu miễn phí Phân tích thơ Thu ẩm Nguyễn Khuyến Bài tham khảo Thu ẩm có nghĩa mùa thu uống rượu Đây ba thơ Nôm nói mùa thu tiếng Nguyễn Khuyến Thu điếu Mùa thu câu cá, Thu vịnh Mùa thu làm thơ, Thu ẩm Mùa thu uống rượu Chùm thơ dáng thu, hồn thu đồng Bắc Bộ thời xưa Mỗi thơ mang dáng thu riêng nét tâm tình riêng Thấm đượm vào cảnh vật tâm trạng băn khoăn, u uất nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc Dáng thu Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ Trời thu xanh ngát cao; khóm tre thu nhỏ lại hinh ảnh cần trúc, sương khói phủ thành tầng mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa chiều sâu Dáng thu, hồn thu Thu điếu lại chất chứa thu nhỏ lặng im cảnh vật thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc mặt ao gợn tí, vàng khẽ rơi không thành tiếng, tiếng cá đớp động nhẹ chân bèo Tất im lìm, tĩnh mịch VnDoc - Tải tài liệu, văn pháp luật, biểu mẫu miễn phí Tưởng chừng ông câu hoá đá tư tựa gối ôm cần Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ chờ đợi mỏi mòn không khí yên lặng gần tuyệt đối Trở lại với hai thơ thu dòng có ý so sánh đế nhìn rõ dáng thu, hồn thu tâm tư nhà thơ Thu ẩm này, đây, dáng thu, hồn thu tâm tư nhà thơ có khác Cảnh vật cảnh vật quen thuộc Từ nhà, từ vườn cụ Tam Nguyên nhìn cánh đồng, ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng ao Khác chút đây, Nguyễn Khuyến không nhà thơ, ông câu mà ông già khề khà chén rượu giải sầu Nhưng khác mà cảnh vật dường biến đổi, đầy bất ngờ thú vị Hai câu đề Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè Nhà tranh mà gọi nhà cỏ giá trị hạ xuống bậc chữ nghĩa khác chưa Nhưng thấp le te thi rõ lụp xụp chẳng lành lặn, mái tranh rách nát, xác xơ đổi dạng Tiếp theo, ngõ tối đêm sâu cảnh bình thường ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối đêm sâu biến dạng Hai câu thực Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe Sương thu lớt phớt khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng nhạt bớt màu đêm Đặc biệt tài tình hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng Bóng trăng mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp Hai câu luận Da trời nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy đỏ hoe Nguyễn Khuyến tả cảnh trời cảnh Dường bầu trời người bị lực vô hình nấo làm cho biến đổi Da trời nhuộm mà xanh ngắt, mắt không vầy đỏ hoe? Hay say rượu ? Say rượu thường đỏ mắt VnDoc - Tải tài liệu, văn pháp luật, biểu mẫu miễn phí Chữ câu thơ lấp lửng mối hoài nghi lấp lửng không vô ý Đây biểu tâm trạng nhà thơ chăng? Hay mạch với cảm nhận hoa năm mà nhìn hoa năm ngoái nghe tiếng ngỗng văng vẳng không mà giật tự hỏi ngỗng nước ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà đau đớn, day dứt khồng nguôi Cuối tửu lượng nhà thơ chẳng bình thường RƯỢU tiếng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén say nhè Tại cảnh vật lại có biến hình đổi dạng thế? Do người nhìn say rượu say nhìn hoá thành hai, thành ba nhạt nhoà tất Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo say Âm thơ theo điệu Rõ bất ngờ nhất, thú vị từ le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè Tất từ quy vào âm chủ đạo e từ nhè, say nhè mà nhoè thành nguyên âm đôi oè lập /oè, oe loe, hoe, vần lảo đảo say theo, say mạnh Cảnh vật say ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe theo sóng, mắt người tự nhiên đỏ hoe Trong câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm / nối tiếp nhau, làm tăng gấp bội cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ bóng trăng mà mặt ao, nước từ lan toả toàn để kết thúc hai chữ say nhè Nhà thơ đối diện với bầu rượu đêm thu vắng Sau dăm ba chén, men khơi dậy tâm tư Nỗi xúc động sâu xa tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu Cái hay, tài thơ Thu ẩm Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây uống lại thấy nỗi niềm rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cảnh vật đêm thu Đã có lúc không uống rượu tâm trạng dường vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười thấy chuếnh choáng Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say mà Bài tham khảo Thu ẩm Nguyễn Khuyến VnDoc - Tải tài liệu, văn pháp luật, biểu mẫu miễn phí Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe Da trời nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vầy đỏ hoe Rượu tiếng hay hay chả mấy, Độ năm ba chén say nhè Rượu, hoa, trăng thú tiêu khiển cao tao nhân mác khách xưa Bài thơ "Nâng chén, hỏi trăng" Lý Bạch nhiều người yêu thích "Người chẳng thấy trăng thời trước Người trước, trăng soi Người trước, người nước chảy Cùng xem trăng sáng Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi" Tương Như dịch Tam Nguyên Yên Đổ có nhiều câu thơ đậm đà ý vị nói rượu "Khi vui chén rượu say Ngửa mặt lờ mờ núi xa" Cáo quan nhà "Em chẳng no mà chẳng đói, Thung thăng lá, rượu lưng bầu" Lụt, hỏi thăm bạn "Rượu ngon bạn ...Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến Thu Điếu nằm trong chùm thơ của Nguyễn Khuyến. Đây là một trong những bài thơ hay nhất trong hệ thống thơ ca tả về mùa thu và cũng là một trong ba bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Khuyến tả về làng cảnh Việt Nam. Cũng như Thu Vịnh và Thu Ẩm, bài Thu Điếu, đem đến cho người đọc sự cảm nhận vẻ đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. Nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc đón nhận từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả miêu tả mùa thu đựơc cả không gian và thời gian cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động. Bài thơ kể việc câu cá mùa thu nhưng thực ra đó lại là nói chuyện mùa thu, miêu tả cảnh mùa thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. Không gian mùa thu, vắng lặng và chính sự vắng lặng này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ của mùa thu và tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả. Ở hai câu đầu tác giả viết Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Hai câu thơ này không chỉ miêu tả được cả không gian mùa thu ao thu mà còn miêu tả được cả thời gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong veo, đã trong lại còn trong veo và thêm lạnh lẽo. Ao thu lạnh lẽo càng làm tăng thêm độ buồn của mùa thu. Đó là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi miêu tả khung cảnh mùa thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng làm cho không gian càng thêm thu nhỏ lại. Không nói ao rộng nhưng qua việc miêu tả ao mùa thu lại còn lạnh lẽo làm cho không gian ở đây có phần mông lung và như tan ra cùng sự lạnh lẽo của ao mùa thu. Mùa thu nước ao mới trong xanh như vậy làm cho không gian thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại. Cảnh ao càng thêm vắng lặng Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Cảnh trên bờ ao lúc này chỉ có gió mà lại rất khẽ, làm cho sóng chỉ hơi gợi tí ta cũng thấy được gió ở đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo ra âm thanh từ khẽ miêu tả được cả âm thanh, đó là âm thanh, đó là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của mùa thu. Ngày cả từ vèo cũng vậy đó không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo đó còn là thể hiện tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước tình hình của đất nước đầy đau thương. Đến câu thơ thứ năm và thứ sáu, từ việc miêu tả cảnh ao thu, tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh trời mùa thu. Cảnh sắc trời tác giả miêu tả rộng ra đó là cảnh mặt trời mùa thu. Cảnh sắc trời mùa thu được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Từ không gian của cảnh ao thu đó không chỉ là Ao thu lạnh lẽo, Chiếc thuyền câu bé tẻo teo tác giả miêu tả cảnh thu rộng và xa hơn đó là trời thu. Khung cảnh trời thu với tầng mây lơ lửng nhuộm một màu xanh ngắt, đám mây lơ lửng như không buồn trôi. Ở đây từ lơ lửng đó còn là tâm trạng suy nghĩ của tác giả về một vấn đề già đó chưa quyết định rõ ràng. Từ trời thu tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. Không gian lại trở nên vắng lặng buồn thảm bên cạnh đó việc khách vắng teo lại càng làm tăng thêm không khí của mùa Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thuthường mang đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ haynuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Dường như không aivô tình mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ…Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùathu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông,vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” Thu vịnh, với cái nước “trong veo”của ao cá Thu điếu, và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” Thuẩm. Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của NguyễnKhuyến, Xuân Diệu có viết “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu làđiển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào mà “Thu điếu làđiển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian thoáng đãng, mênhmông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được “ Trờithu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở một khung cảnh thiên nhiênrộng rãi, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu ao chuôm là đặcđiểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn KhuyếnAo thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoCâu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảmgiác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh,nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị giớihạn mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữathu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thếmà thật bất ngờ Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnhthiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếcthuyền “tẻo teo” trông thật xinh xắn. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi và thânmật biết bao!Với hai câu mở đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao “lẽo”,“veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồihình ảnhSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèoCàng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng vcái động của “lá vàng trước gió” đểmiêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cáilạnh trở về, khiến ao thu không còn “lạnh lẽo”, không còn tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàngkhẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếclá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như mâu thuẫn với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quansát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong khônggian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thật sâu sắcthì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm nhận được những âm thanh tinh tế, tưởng chừng như chẳng ai để ýđến như thế! Như trên đã nói mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không bị giới hạn mà đã mở rộng không gian theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vậtTầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teoBầu trời thu xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Những áng mây không trôi nổi baykhắp bầu trời mà “lơ lửng”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu vớiLong lanh đáy nước in trờiThành xây khói biếc non phơi bóng vàngNay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với khungcảnh Bài thơ diễn đạt tâm trạng ưu thời mẫn thế của Nguyễn Khuyếntrước tình cảnh đất nước bị kẻ thù xâm lược và thế hệ nhà thơnhư các ông không tìm được cách gì đó hiệu quá để cứu nước. Bàithơ cũng nói lên tình yêu quê hương đất nước của tác xuất phát của cái nhìn là từ cảnh ao thu và chiếc thuyền câu. Tất nhiên nhà thơ đang ngồi trên chiếcthuyền câu trên ao nhưng hình ảnh con người lúc này ẩn kín, nhường cho khung cảnh thiên nhiên. Từcảnh gần, nhà thơ khái quát đến không gian rộng hơn trên cao là bầu trời với những ậng mây và ở dướiđất là ngõ trúc vắng sắc riêng của mùa thu được gợi lên qua các từ ngữ, hình anh như ao thu trong veo, sóng gợn nhẹhơi gợn tí, lá vàng rơi trong gió lá vàng trước gió khẽ đưa vèo và bầu trời xanh ngắt rất đặc trưng. Đâylà cảnh thu điển hình của đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể hơn, của vùng đồng chiêm trũng Hà Nam. Tất cả đềugợi cảm giác trong sáng, thanh sạch, nhẹ nhàng, lặng lẽ. Không gian đồng quê Bắc Bộ với ngõ trúc ngõcố lũy tre, ao nhỏi chiếc thuyền câu cũng góp phần đem lại cảm giác thu Việt gian trong bài Thu điếu là cảnh thu được diễn tả bằng nhiều phương diện màu sắc màu xanhbiếc của nước, màu vàng của lá cây và màu xanh da trời âm thanh ngõ khuất nẻo không một tiếng người- khách vống leo, tiếng cá quẫy nước nhè nhẹ dưới cánh bèo, hình khối, đường nét sóng gợn nhọ, chiếclá bay trong gió, áng mày hầu như đứng im lặng trên bầu trời xanh biếc, ngõ quanh co sâu hút. Khônggian này gợi ấn tượng về sự vắng lặng, cách biệt của nơi nhà thơ đang sống, một không gian ẩn dật, ảnh “lá vàng tníởc gió sẽ đưa vèo" tức là gió làm lá rơi nhẹ, không gây một tiếng động nào. Nhà thơcố gắng tạo cho mình một tâm thế của ngươi ẩn sĩ trong hoàn cảnh đất nước bị giặc Pháp xâm lược. Việcông rút lui khỏi quan trường là một hành động dũng cảm, cao đẹp, như chính ông nói trong một bài thơ,đó là hành động dũng thoái quyết tâm rút lui. Nhưng không thể làm người ẩn sĩ được. Người câu cátưởng như đang tận hưởng sự thanh thản trong không gian ẩn dật lánh đời thì bỗng không gian ấy bị phávỡ. Tiếng cá quẫy động dưới cánh bèo đã phá tan sự tĩnh lặng như đánh thức nhà thơ khỏi tâm trạng ẩndật lánh đời đó. Trách nhiệm với đất nước, thời thế đã thay đổi, không thể ẩn dật như các nhà nhà thơ xưađược chung, bài thơ diễn đạt tâm trạng ưu thời mẫn thế của Nguyễn Khuyến trước tình cảnh đất nước bịkẻ thù xâm lược và thế hệ nhà thơ như các ông không tìm được cách gì đó hiệu quá để cứu nước. Bài thơcũng nói lên tình yêu quê hương đất nước của tác thêm Video bài giảng môn Văn học “Thu điếu\\\" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật,ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinhđẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắctuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùmthơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào bài "Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnhViệt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiênnhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.“Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểucảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vờidưới ngọn bút thần tình của Nguyễn câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khóimùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnhlẽo”. Trện mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ - “bé tẻo teo". Cái ao và chiếcthuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên aonhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.Các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắcnước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của cảnh thú“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèoMàu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuậtđối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng" với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mứcđộ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nóimột đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu" "Vèo trông lárụng đầy sân”.Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" vớinhững tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắctrời thu là “xanh ngắt"- “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao". Thu vịnh- “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ”Thu ẩm- Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.Thu điếu“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây mây xám, mà xanh ngắt một màu thăm ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câucá. Thế rồi, ông lão đong đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong một giấcmộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóngbiếc" đến "lá vàng", từ “tầng mây lơ lửng” đến “ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âmthanh có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mọi con người ViệtNam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là hai câu kết“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.“Tựa gối ôm cần ” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà thơ đã thoát vòngdanh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động” nhất là từ “đâu” gợi liên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Ngườicâu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều - Xem thêm -Xem thêm Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến, Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến,

phân tích thu ẩm